Thứ Năm, 9 tháng 7, 2009

So sánhTương Tư (Phần 1) và Việt Bắc (Khổ 5)

Câu III.b. Theo chương trình nâng cao (5,0 điểm) ĐH 2009 Khối C
Cảm nhận của anh/chị về 2 đoạn thơ sau:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
(Tương tư - Nguyễn Bính, Ngữ văn 11 nâng cao, tập 2, NXB Giáo dục, 2007, tr. 55)
Nhớ gì như nhớ người yêu,
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
(Việt Bắc - Tố Hữu, Ngữ văn 12 nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, 2008, tr. 84)
- Tình yêu và nỗi nhớ là cảm hứng muôn đời của thi ca. Nhưng ở mỗi nhà thơ, mỗi thời lại mang những cảm xúc riêng, cách thể hiện riêng…Nguyễn Bính và Tố hữu đã có những vần thơ viết về nỗi nhớ và tình yêu đi vào long người.
- Nguyễn Bính là nhà thơ của phong trào thơ mới, với một cái Tôi cá nhân rạo rực tha thiết đã viết về giây phút tương tư của con người chân thực, đắm đuối, riêng tư…
- Tố Hữu, nhà thơ chiến sĩ đã lồng tình cảm cách mạng vào tình yêu đôi lứa, gắn kết giữa tình cảm riêng tư với tình yêu con người và thiên nhiên Việt Bắc…
- Nỗi nhớ trong Tương Tư là nỗi nhớ cháy bỏng nhưng đơn phương của chàng trai thon Đoài với cô gái thôn Đông, nỗi nhớ tràn ngập không gian, ngày càng tha thiết, mãnh liệt: nhớ, mong, tương tư, yêu và cuối cùng trở thành một căn bệnh tương tư
- Nỗi nhớ trong Việt Bắc là nỗi hoài niệm của người cán bộ cách mạng khi phải chia tay với thiên nhiên và con người Việt Bắc, nỗi nhớ cũng giăng mắc khắp không gian, lung linh những kỉ niệm, nhưng nỗi nhớ không chỉ dành riêng cho một đối tương riêng tư mà trở thành tiếng lòng chung của tất cả những người cách mạng với Việt Bắc…
- Về nghệ thuật: Cả hai tác giả đều sử dụng thể thơ dân tộc lục bát tạo nên giọng điệu tha thiết ngọt ngào, sâu lắng. Hình ảnh thơ quen thuộc, gần gũi với cảnh sắc thiên nhiên đất nước, sử dụng nhiều thành ngữ, lối ví von quen thuộc của dân gian, phép điệp ngữ…
Nhóm giáo viên môn Văn trường THPT Chu Văn An - Hà Nội

Thứ Năm, 25 tháng 6, 2009

Vĩnh biệt Cửu trùng đài

VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI (Nguyễn Huy Tưởng)

I. Tìm hiểu chung
- Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) quê ở Đông Anh, Hà Nội. thành công ở thể loại tiểu thuyết và kịch, thiên về đề tài lịch sử
- Các tác phẩm chính Vũ Như Tô (1941), Bắc Sơn (1946), tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì (1942) Sống mãi với Thủ đô (1961); Truyện thiếu nhi: Lá cờ thêu sáu chữ vàng....
- Ông được nhận Giải thưởng HCM về văn học và nghệ thuật 1996
- Vũ Như Tô là kịch lịch sử 5 hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng 1516-1517.
- Tóm tắt vở kịch ( SGK) :Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài trích hồi V của vở kịch.
- Tóm tắt đoạn trích: Biết tin có binh biến, ĐT khuyên VNT đi trốn nhưng VNT không nghe vì tự tin mình “quang minh chính đại”, ‘không làm gì nên tội” và hi vọng ở chủ tướng An Hòa Hầu. Tình hình càng lúc càng nguy kịch: Lê Tương Dực bị giết, đại thần, hoàng hậu, cung nữ cũng bị vạ lây, ĐT bị bắt...Kinh thành điên đảo. Khi quân khởi loạn đốt CTĐ thành tro, VHT mới tỉnh ngộ. Ông trơ trọi, đau đớn vĩnh biệt CTĐ rồi bình thản bước ra pháp trường.
II. Đọc - hiểu

1. Các mâu thuẫn cơ bản của vở kịch trong hồi V
a. Mâu thuẫn giữa đời sống xa hoa trụy lạc của bọn tham quan bạo chúa với đời sống của thường dân
- Lê Tương Dực bị giết, gian thần Nguyễn Vũ chết trong một trò hề nhạt nhẽo, hoàng hậu và đám cung nữ bị nhục mạ bắt bớ. Dân chúng reo hò, nhiếc móc, đốt phá -> Uy quyền của của bạo chúa tan tành theo tro bụi Cửu Trùng Đài. Đây đúng là dân nổi can qua, vua quan thất thế. tuy nhiên cuộc nổi dậy ấy không thể mang lại những gì tốt đẹp cho họ bởi giang sơn sẽ lại rơi vào tay những kẻ cầm đầu (phe cánh Trịnh Duy Sản)
b. Mâu thuẫn giữa niềm khát khao hiến dâng tất cả cho nghệ thuật của người nghệ sĩ đắm chìm trong mơ mộng với lợi ích trực tiếp và thiết thực của người dân
- Nguyên nhân sâu xa của bi kịch: người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo vì thế khi biết rằng có thể mượn tay của bạo chúa LTD mà thực hiện hoài bão thì anh ta sẵn sàng bất chấp tất cả kể cả công sức và tiền bạc của nhân dân, bằng mồ hôi, xương máu của những người thợ. Chính đầu đó đẩy VNT đến vị thế đối nghịch với lợi ích trực tiếp của nhân dân (ct4), VNT trở thành kẻ thù của dân!
- Cuối vở kịch người ta không chỉ nguyền rủa tác giả CTĐ mà còn đốt phá CTĐ và trừng phạt tác giả của nó. đỉnh điểm của xung đột. Nếu trong những hồi đầu nó chỉ là mâu thuẫn tiềm ẩn , mờ nhật sau >< thứ nhất thì bây giờ nó hòa nhập làm một với >< thứ nhất. Thậm chí người dân không mấy quan tâm đến việc trả thù bạo chúa LTD mà chỉ chăm chăm truy diệt phanh thây VNT và người cung nữ “đồng bệnh” với ông là Đan Thiềm.

2. Tính cách và diễn biến tâm trạng của các nhân vật chính

a. Vũ Như TôKhái niệm bi kịch: ước mơ chính đáng cao đẹp tương phản với hiện thực phũ phàng
Bi kịch Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn, nhưng không giải quyết được những mối quan hệ phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống, đặc biệt là không giải quyết được thực sự đúng đắn vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì:
- Vũ Như Tô muốn xây một công trình kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông và mục đích đó là hết sức cao đẹp, xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ, từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
- Nhưng trên thực tế, Cửu Trùng Đài xây trên tiền của, mồ hôi, xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành, nó cũng chỉ là nơi ăn chơi sa đọa của vua chúa. Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình, chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ nên trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân.
- Chính vì vậy, nhân dân căm hận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa người
kiến trúc sư và cuối cùng đã giết chết cả Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy Cửu trùng Đài
- Tính cách VNT là tính cách của người nghệ sĩ tài ba, hiện thân cho niềm khát khao và đam
mê sáng tạo cái đẹp. Vì thế đi tận cùng niềm đam mê khao khát ấy VNT phải đối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình, ông trở thành kẻ thù của dân, của những nguời thợ mà không hay biết
- VNT được đặt trong tình thế trăn trở tìm kiếm câu trả lời: xây CTĐ là đúng hay sai? Có công hay có tội? Nhưng VNT không thể trả lời vì ông chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường cái đẹp mà không đứng trên lập trường cái thiện. Hành động của ông không hướng đến sự hòa giải mà thách thức và chấp nhận sự hủy diệt. VNT tranh tinh xảo với hóa công giờ lại bướng bỉnh tranh phải-trái với số phận và với cuộc đời (Ta xây CTĐ có phải đâu để hại nước?...)

b. Đan Thiềm- Đam mê cái tài- tài sáng tạo nên cái đẹp. “Bệnh Đan Thiềm” là bệnh mê đắm người tài hoa là bệnh của kẻ “biệt nhỡn liên tài”(NT). Đan Thiềm có thể quên mình để khích lệ bảo vệ cái Tài nhưng nàng luôn tỉnh táo sáng suốt vì nàng hiểu người hiểu đời hơn, thức thời hơn, mềm mại và dễ thích ứng với hoàn cảnh hơn VNT. Hai lần khuyên nhủ VNT đều rất sáng suốt nhưng lần thứ nhất lời khuyên có hiệu lực, lần hai thì không cvà bi kịch của ĐT gắn với thất bại này, nàng đau xót và tiếc thay cho VNT
 Cuối cùng cả VNT và ĐT đều lâm vào trạng thái khủng hoảng với nỗi đau chung: sự vỡ mộng thê thảm nhưng diễn biến tâm trạng khác nhau
- ĐT đau đớn nhận ra thất bại của giấc mộng xây CTĐ nhưng nhạy bén kịp thời hơn VNT. Tâm trí nàng không hướng vào sự thành bại của việc xây CTĐ mà hướng vào sự sống còn của VNT, nàng khẩn khoản khuyên VNT đi trốn và hốt hoảng đau đớn tột cùng khi lời khuyên vô hiệu, thậm chí xin nhận tội để xin tha mạng cho VNT vì “ông ấy là một người tài” nhưng cũng không được, ĐT đành buông lời vĩnh biệt tất cả “Đài lớn tan tành! Ông Cả ơi! xin cùng ông vĩnh biệt!”, Đó là lời vĩnh biệt mãi mãi CTĐ, vĩnh biệt “giấc mộng lớn” trong máu và nước mắt
- VNT trái lại vẫn không thể thoát khỏi trạng thái mơ màng ảo vọng. Ông không tin việc làm của mình là tội ác, không tin sự quang minh chính đại của mình bị rẻ rúng, nghi ngờ. Sự vỡ mộng ấy vì thế đau đớn, kinh hoàng gấp bội so với ĐT. Nỗi đau ấy bộc lộ thành tiếng kêu bi thiết não nùng khắc khoải tạo âm hưởng chung cho cả vở kịch “Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi CTĐ!”-> nỗi đau như hòa nhập làm một thành nỗi đau bi tráng tột cùng
c. Thái độ của tác giả- Trân trọng cái tài, khâm phục cái hoài bão của VNT, tuy nhiên không thể là ngợi ca một chiều. Ông nhận ra VNT chỉ là người tài chưa phải bậc hiền tài, cái đẹp VNT tạo ra là tuyệt mĩ chứ không tuyệt thiện. Chân lí thuộc về VNT một nửa còn một nửa thuộc về đời sống dân chúng .
- Thương cảm cho bi kịch của người nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo, sẵn sàng hy sinh tất cả cho cái đẹp, nhưng xa rời thực tế mà phải trả giá đắt bằng sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật của mình.sàng hy sinh tất cả cho cái đẹp, nhưng xa rời thực tế mà phải trả giá đắt bằng sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật của mình.
3. Ý nghĩa của mâu thuẫn giữa quan niệm nghệ thuật và lợi ích của nhân dân- CTĐ bị đốt, VNT và ĐT bị giết , cái đẹp và cái thiện không thể điều hòa, chung sống, mâu thuẫn này chỉ được giải quyết khi đời sống tinh thần của nhân dân, nhu cầu về cái đẹp được nâng cao, cần có sự giác ngộ của cả nghệ sĩ và nhân dân.
- Không có cái đẹp tách rời cái chân, cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần túy, mà phải có mục đích phục vụ nhân dân. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn, có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng phải biết xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế của cuộc sống, với đòi hỏi,của muôn dân.
- Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý trọng nâng niu những sản phẩm nghệ thuật đích thực.

4. Nghệ thuật- Nhịp điệu lời nói, hành động của các nhân vật khẩn trương, ngôn ngữ có tính tổng hợp ( kể, miêu tả, bộc lộ) và tính hành động cao, lời chỉ dẫn sân khấu hàm súc-> tái hiện không gian bạo lực kinh hoàng:LTD bị giết hoàng hậu nhảy vào lửa (qua lời kể của Lê Trung Mại), Nguyễn Vũ tự vẫn (trên sân khấu)Đan Thiềm suýt bị bọn nội giám thắt cổ, VNT ra pháp trường, tiếng chửi rủa, la hét, máu, nước mắt...-. tất cả sôi sục
- Tác giả khai thác vận dụng sử liệu phù hợp với bi kịch, tạo được cái bi tráng của lịch sử
- Những chú thích nghệ thuật để tạo dựng tình huống, bối cảnh diễn xuất

5. Kết luận
Qua bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy tư sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và hiện thực đời sống của nhân dân

Tác gia Nam Cao

NAM CAO
I. Tìm hiểu chung

1. Tiểu sử- Nam Cao (1917-1951), tên khai sinh Trần Hữu Tri . Quê làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang nay thuộc xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam
- Học hết Thành Chung, Nam Cao vào Sài Gòn, sau đó về quê; lên Hà Nội dạy Tư thục. 1943 tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc. 1945 tham gia Tổng khởi nghĩa ở Hà Nam. 1946 đi Nam tiến. Sau đó lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ ở Trung ương.1950 tham gia chiến dịch Biên giới. Tháng 11-1951 hi sinh trên đường công tác vào Liên khu III
- Nam Cao được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 1996
2. Con người
- Đời sống nội tâm phong phú, sôi sục, có khi căng thẳng.
- Luôn nghiêm khắc đấu tranh với bản thân để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen.
- Có tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương, gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ.
- Luôn suy tư, khái quát những triết lí sống sâu sắc→ Chọn con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh”

II. Sự nghiệp văn học
1. Quan điểm nghệ thuật
a. Quan điểm về nghề văn
- Phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công.
- Nghề văn là nghề cao quí, nhà văn phải có lương tâm.
- Tư tưởng nhân đạo sâu sắc là yêu cầu tất yếu của một tác phẩm văn chương chân chính
→ Cuộc sống phải đặt lên trên văn chương, nghệ thuật phải gắn với đời sống, nhìn thẳng, lên tiếng vì sự cùng quẫn của nhân dân lao khổ.
- Bản chất của văn chương là sự tìm tòi sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn, dễ dãi, cẩu thả → người cầm bút phải có nhân cách, lương tâm.
b. Quan điểm văn học hiện thực chủ nghĩa
+ Phản ánh chân thật cuộc sống trên lập trường nhân đạo ( nghệ thuật phải là “tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than >< “ Ánh trăng lừa dối” ”- Đời thừa)
+ Không chỉ mô tả cuộc sống mà còn phải phân tích, giải thích cuộc sống theo qui luật hoàn cảnh quyết định tâm lí tính cách con người.
+ Nhà văn phải nhìn người bằng đôi mắt của tình thương, sự cảm phục và tin tưởng.
+ Coi trọng vai trò chủ thể sáng tác .
2. Các đề tài chính của Nam Cao
2.1 Trước CMT8
a. Đề tài người trí thức nghèo
- Miêu tả tấn bi kịch của người trí thức nghèo :Ý thức sâu sắc giá trị sự sống và nhân phẩm, có tài năng, tâm huyết, hoài bãobị gánh năng áo cơm gì sát đất trong xã hội cũ. → Rơi vào tình trạng đời thừa, sống mòn.
 Phê phán xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người; khao khát một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là con người.
- Tác phẩm: Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…
b. Đề tài người nông dân nghèo
- Am hiểu và cảm thông, bênh vực những người nông dân nghèo khổ bị chà đạp, chết khi đang sống.
- Lên án tố cáo xã hội đã đẩy con người tới bước đường cùng
- Chú ý tới người thấp cổ bé họng, số phận bi thảm, nghèo đói, cùng đường.
→ Phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện, đẹp đẽ của họ.
→ Dựng lên bức tranh nông thôn việt Nam trước cách mạng tháng Tám nghèo đói, xơ xác.
Nam Cao có những khám phá mới mẻ, chiều sâu tư tưởng
- Tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Lang rận…
==> Giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc
2.2. Sau cách mạng tháng tám: viết về người trí thức theo cách mạng, phản ảnh hiện thực kháng chiến chống Pháp với quan niệm “sống rồi hãy viết”.
- Tác phẩm: Đôi mắt, Nhật kí ở rừng

3. Những đặc điểm về nghệ thuật viết truyện.- Đi sâu vào khám phá thế giới tinh thần của con người. Sở trường miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật, đi sâu vào những diễn biến phức tạp trong nội tâm con người.
- Ngôn ngữ: đối thoại, độc thoại chân thật, sinh động  Luôn thay đổi giọng điệu. Cách kể chuyện, kết cấu linh hoạt không theo trật tự thời gian, không gian → Kiểu kết cấu tâm lí.
- Lối viết chân thực, có tầm khái quát cao, giàu màu sắc triết lí.
- Xây dựng nhân vật điển hình, sống động với giọng điệu riêng: buồn thương chua chát, dửng dưng lạnh lùng nhưng đầy thương cảm, đằm thắm yêu thương.

 Đóng góp lớn trong việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.
III. Kết luận - Ông có nhiều đóng góp cho việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa văn học nửa đầu TK XX. Với tinh thần “nghệ thuật vị nhân sinh”
- NC đã để lại nhiều kiệt tác với những tìm tòi sáng tạo. Các tác phẩm của NC thấm đượm tư tưởng nhân đạo và có giá trị hiện thực sâu sắc.Nam Cao là tấm gương sáng cho các thế hệ nhà văn Việt Nam.

Đây thôn Vỹ Dạ

ĐÂY THÔN VỸ DẠ (HÀN MẶC TỬ)

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?[2]
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền [3]

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay [4]
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà

I. TÌM HIỂU CHUNG:

1/ Tác giả:

a) Cuộc đời: (1912 - 1940)- Tên khai sinh : Nguyễn Trọng Trí.- Tên thánh : Phê - rô - Phan - Xi - Cô.- Sinh tại: Đồng Hới (nay là Quảng Bình)- Xuất thân trong một gia đối công giáo nghèo - Sau khi học trung học, làm công chức ở Sở Đạc Điền - Bình Định, rồi vào Sài Gòn làm báo.- Năm 1940 mất tại trại phong Ouy Hoà.
 Cuộc đời Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và bất hạnh.

b. SNST:
- Năm 14,15 tuổi, HMT nổi tiếng là thần đồng thơ ở Ouy Nhơn. Ông dùng nhiều bút danh: Phong Trần, Lệ Thanh, HMT (Hàn: bút; mặc: mực). Ban đầu sáng tạo theo thể thơ Đường luật, sau chuyển sang khuynh hướng thơ mới lãng mạn
 HMT là hiện tượng thơ kì lạ vào bậc nhất của phong trào thơ mới.
- Thơ HMT đan xen những gì thân thuộc, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những điều ghê rợn, ma quái, cuồng loạn nhất. Trăng, hoa, nhạc, hương... chen lẫn hồn, máu, yêu ma...
- ND: thể hiện 1 tình yêu đến đau đớn hưng về clsống trần thế.
- TP : Gái quê (1936); Thơ Điên (Đau thương-1938), Xuân như ý, Thượng thanh Khí, Cấm châu duyên, Duyên kì ngộ (kịch thơ - 1939) ; Quần tiên hội (1940),...

2/ Bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ”

a) Xuất Xứ :

Bài thơ được gợi cảm hứng từ 1 tấm thiệp của Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho HMT để động viên, an ủi khi bà nghe tin nhà thơ bị bệnh phong. Lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” (1938) in trong tập “Đau thương”

b) Bố cục:
- Khổ 1: Cảnh vườn thôn Vĩ - nét đặc trưng của khung cảnh xứ Huế- Khổ 2: Cảnh vừa thực vừa ảo hoà quyện, tâm trạng mong ngóng.- Khổ 3: Cảm xúc mơ tưởng, hoài nghi .

c) Chủ đề:Qua việc miêu tả bức tranh thiên nhiên thực ảo của thôn Vĩ - xứ Huế, nhà thơ đã bày tỏ tâm trạng buồn, hoài nghi, vô vọng thông ẩn chứa nỗi niềm khao khát được giao cảm với cuộc đời.

II. ĐỌC - HIỂU:
1/ Khổ 1: Bức tranh thôn Vĩ - xứ Huế trong tâm tưởng của HMT

- “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
CHTT  gieo vần một loạt từ thanh bằng tạo giọng thơ trăm. Lời trách nhẹ nhàng, có ý mời mọc tha thiết, chân thành.
- “Nắng hàng cau - nắng mới lên - vườn - xanh như ngọc”: từ hình tượng, so sánh độc đáo ==> sự trong trẻo, ấm áp, tràn đầy sức sống
- “mướt qua”: tính từ gợi cảm  khu vườn xanh tươi tốt, đẹp mơn mởn
- “Lá trúc - mặt chữ điền”: từ hình tượng, độc đáo, ấn tượng
==> vẻ đẹp kín đáo, phúc hậu đặc trưng của con người xứ Huế tạo nên cái thần của thôn Vĩ.
SK: Khung cảnh thôn Vĩ được miêu tả rất tươi đẹp, đơn sơ, ấn tượng, giàu sức sống và trữ tình ==> Nỗi nhớ cảnh và người thôn Vĩ.

2/ Khổ 2: Hình ảnh bến sông trăng:
- “Gió theo lối gió mây đường mây”: Từ hình tượng, điệp từ, sáng tạo mới lạ độc đáo ==> Từ ngữ không theo quy luật tự nhiên.
==> Sự chuyển động buồn tẻ, tản mạn: gió mây hững hờ bay mỗi thứ một đường: ngang trái, phi lý. Nhịp 4/3 ==> tách biệt 2 vế
Qua hình ảnh thiên nhiên không hòa hợp ==> tâm trạng của tác giả mặc cảm chia lìa, nguy cơ phải chia lìa cõi đời.
- “Dòng nước buồn thiu”: từ chỉ tâm trạng, NT nhân hóa ==> nhấn mạnh nỗi buồn trĩu nặng tâm tư.
Hình ảnh “Hoa bắp lay” ==> “lay”: động từ chỉ trạng thái động ==> Sự chuyển động nhẹ, khẽ khàng.
==> Nhấn mẫu tâm trạng không yên tĩnh của nhà thơ: nỗi buồn, cô đơn, mặc cảm.
- “Thuyền ai - bến sông trăng...? Có chở trăng ... ?"
Nhà thơ cảm thấy như mình đang bị bỏ rơi, bị quên lãng. Trong khoảnh khắc đơn côi ấy, dường như chỉ còn biết bám víu trông chờ vào trăng. Trăng là điểm tựa, là niềm an ủi duy nhất, nhà thơ đặt toàn bộ niềm hy vọng vào trăng, vào con thuyền chở trăng về kịp tối nay. Trong khổ thơ, chỉ có 1 mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi đó để về với thi sĩ.
- Từ “kịp”: rất bình dị, nó hé mở cho người đọc về cảm nhận & tâm thế sống của HMT. Hiện tại ngắn ngủi, sống là chạy đua với thời gian, tranh thủ từng ngày, từng bước trong quỹ thời gian còn lại quá ít ỏi của số phận mình. HMT rất lo âu vì sự sống chẳng còn bao lâu
==> yêu cuộc sống.
XD cảm nhận về cái chết luôn chờ mỗi người ở cuối con đường, nên cần tranh thủ sống mà tận hưởng tối đa những hạnh phúc trần thế. Còn với HMT, cái chết đã cận kề, lưỡi hái của tử thần đã giơ lên rồi ==> Chữ “kịp” gợi nỗi xót thương sâu sắc ở người đọc.
- “Có ... nay?”: Câu hỏi tu từ ==> tâm trạng phấp phỏng, lo âu, khắc khoải trăn trở, thực và ảo hòa quyện, đan xen.
SK: Hình ảnh thơ độc đáo, thi vị, giàu sức gợi  tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, thể hiện khát vọng muốn bộc lộ tâm sự hòa mình giao cảm với thiên nhiên và con người ==> yêu cuộc sống mãnh liệt.

3/ Khổ 3: Tâm trạng của con người:
- “Mơ - khách đường xa”: Điệp ngữ  Nhấn mạnh sự mong đợi tha thiết
“xa” tính từ ==> người xưa thật xa xôi, tất cả trở thành vô vọng.
- “áo em trắng quá nhìn không ra” hoán dụ ==> màu áo tâm tưởng tràn đầy kỉ niệm xa xăm nhạt nhoà ==> xa cách.
- “Sương khói - mờ”: lớp từ đa nghĩa ==> nhấn mạnh sự nhạt nhòa - đấy cảm nhận mờ áo, khắc sâu tâm trạng khao khát hòa nhập với thiên nhiên, con người và cuộc sống
- “Ai (1) biết tình ai (2) có đậm đà?”:
“ai” (1): chủ thể thi sĩ
“ai” (2): khách đường xa (nghĩa hẹp), tình người trong cõi nhân gian ==> câu hỏi tu từ, điệp từ, đại từ phiếm chỉ “ai” ==> Nhấn mạnh tâm trạng mặc cảm, chứa nhiều uẩn khúc; không dám tin vào sự đậm đà của tình ai ==> một nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải xót xa, mong chờ trong vô vọng.
==> HMT vẫn khao khát được sống, được giao cảm, được yêu thương, chia sẻ đau buồn.

4/ Nghệ thuật:
- Phong cách thơ HMT: Mạch cảm xúc dào dạt, xuyên suốt bài thơ. Dù ba khổ thơ liên kết với nhau không phải theo tính liên tục của thời gian và tính duy nhất của. không gian. Bắt đầu là cảnh thôn Vĩ rồi chuyển sang cảnh sông Hương, thuyền chở trăng gợi liên tưởng thực - ảo đan xen ==> lãng mạn, độc đáo
- Ngôn từ thơ có thiên hướng mô tả ở mức cực điểm ==> trữ tình

III. KẾT LUẬN:
- Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có cuộc đời riêng nhiều bi thương nhưng ông đã gắng vượt qua với nghị lực phi thường và luôn hòa nhập mình giao cảm với cuộc sống.
- Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp miêu tả cảnh vừa thực vừa ảo đan xen, tạo nên nét đặc sắc độc đáo; Đó là tiếng lòng của một nhà thơ yêu đời, tha thiết gắn bó với cuộc sống.
- Bài thơ được miêu tả với nhiều hình tượng đặc sắc, chi tiết tiêu biểu, gợi cảm, ngôn ngữ tinh tế, hàm súc

Tấn bi kịch cũa Hộ

ĐỜI THỪA (NAM CAO)
1. Ý nghĩa của tiêu đề tác phẩm- Đời thừa là cuộc đời vô ích, vô nghĩa.
- Người lâm vào tình trạng sống thừa và ý thức được tình trạng ấy trong tác phẩm là Hộ, nhưng rộng hơn là người trí thức nghèo trong XH cũ. Điều đáng nói là không phải ai cũng đủ trung thực, tỉnh táo để ý thức được tình trang sống thừa như thế. Người trí thức của Nam Cao cảm nhận và ý thức được nỗi đau sống cảnh đời thừa bởi họ luôn khao khát sống cho có ích, có ý nghĩa, có giá trị.

2. Nhân vật Hộa. Mâu thuẫn nội tâm- Mâu thuẫn giữa khát vọng sống có ý nghĩa >< chăm lo cuộc sống gia đình, cái hay cái đẹp, >< tình thương , Lí tưởng >< hiện thực
- Bi kịch của Hộ là không thể bỏ cái này chọn cái kia, không thể tiến hành đồng thời cả lí tưởng XH và trách nhiệm gia đình mà cũng không thể chọn cái nào làm trước cái nào làm sau
- Hộ không thể giải quyết được mâu thuẫn này bởi nó tiềm ẩn ngay trong đời sống XH đương thời, nhà văn không thể có cơ hội để thực hiện lí tưởng hoài bão của mình khi đang phải vật lộn với sự nghèo túng.
b. Nỗi đau tinh thần (bi kịch)
Bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ đã đặt văn chương lên trên hết: Văn chương dường như chính là khát vọng lớn nhất của đời anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính – nhà văn viết “mở hồn đón lấy những vang vọng của đời”. Anh mơ ước đến một ngày anh sẽ viết được một tác phẩm lớn chung cho cả loài người. “Nó đề cập đến những vấn đề bức xúc của cả xã hội của cả nhân loại. Nó nói được những cái lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn vừa phấn khởi, nó ca tụng lòng thương tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” Và nhất định anh sẽ giật giải Nobel ! Đó là cuốn tiểu thuyết vĩ đại trong đời viết văn của anh. Nó sẽ làm rạng danh cho anh, cho nền văn học nước nhà. Đó quả là ước mơ chính đáng ! Không phải người nghệ sĩ nào cũng khao khát như vậy khi bước vào con đường văn chương đầy khổ ải. Nhà văn phải biết xây ước mơ đẹp, và khát vọng của Hộ là khát vọng mạnh mẽ nhất và đẹp nhất. Hộ xác định đúng con đường cho mình – xác định tư tưởng cho mình.
Anh không sa vào những mơ mộng về nghệ thuật - nghệ thuật là “ánh trăng huyền ảo” (như Điền tron Trăng sáng). Anh thấy ánh trăng của nghệ thuật biết “làm đẹp cả những cảnh thật ra chỉ tầm thường xấu xa”. Quan điểm của anh đúng đắn lắm ! Tư tưởng của anh tiến bộ lắm ! Thế nhưng, trong sáng tác của mình anh đã viết những gì ? Anh đã cho ra đời những sáng tác như thế nào ? Anh không hướng nghệ thuật vào “thứ văn chương của bọn nhàn rỗi”; anh không biết để cho những cô gái áo xanh, áo đỏ tha thướt đọc, nhưng anh viết những gì từ khi anh bắt tay vào sáng tác? Chao ôi ! Anh đã viết những bài mà thậm chí khi đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Dường như anh hoảng hốt, anh ngạc nhiên trước những bài viết của mình mới ra đời. Anh dằn vặt ghê gớm. Anh muốn nhưng có phải bao giờ ý muốn cũng thành viện thực đâu ! Và đó chính là cái bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lựa bút theo những điều mình chẳng hề muốn. Tôi cảm thấy cái đau đớn khủng khiếp tự chốn sâu thẳm của tâm hồn anh. Một cái gì đó bỗng chốc sụp đổ trong anh. Đấy chính là sự sụp đổ của một khát vọng đẹp và chân chính.

Anh phải sống như thế, bôi bác như thế cũng chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Chao ôi ! Giá như anh đựơc bay nhảy với những giấc mơ ấy !Nhưng “cơm áo không đùa với khách thơ” (Xuân Diệu). Anh còn vợ và một đàn con nhỏ. Kiếp người với bao toan tính bộn bè níu kéo anh, không cho anh bay lên cùng giấc mộng của đời trai trẻ. Chính nỗi lo về tiền bạc đã buộc anh phải viết những bài trái với lương tâm và trách nhiệm. Trong đầu anh luôn quay cuồng với những tính toán về giá cả sinh hoạt, về bữa ăn hằng hàng… thì đâu còn chỗ cho văn chương nữa. Anh phải viết thật nhanh, thật nhiều để người vợ, đàn con và chính anh khỏi chết đói. Giá như anh cứ bỏ dứt cái mộng văn chương thì chắc đời anh chẳng khốn đốn đến thế ! Nhưng anh cần nghĩ tới tác phẩm của anh – các tác phẩm cho toàn nhân loại nên anh lại càng đau đớn ! Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn. Chao ôi ! “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất” (Sống mòn). Đó chính là bi kịch của cuộc đời viết văn của anh – bi kịch của những giấc mộng văn chương chính là ở chỗ đó ! Và tưởng như giấc mộng văn chương ấy chính là điều day dứt trong anh mãi không thôi.

Phải có những hiểu biết sâu sắc về tâm tư tình cảm con người thì Nam Cao mới viết được những dòng đầy cảm xúc như thế ! Dường như những day dứt trong cuộc đời ông - cuộc đời văn sĩ khổ ải – đã nhập vào những suy tư của Hộ, đã nhập vào tấn bi kịch tinh thần của Hộ. Có người nói, Hộ chính là hình ảnh của nhà văn Nam Cao thời kì trước Cách mạng. Tôi không hoàn toàn nghĩ thế. Nam Cao đã có thể bị cơm áo ghì chặt nhưng Nam Cao hơn hẳn Hộ; ông đã biết vượt lên trên những lo toan ấy để biến giấc mơ thành hiện thực. Ông đã viết những lời văn hay nhất, đẹp nhất về cuộc đời những kiếp lầm than và chắc chắn Nam Cao không phải đỏ mặt khi thấy tên mình sau những tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa… Bởi chính đó là giấc mơ văn chương nẩy nở. Có thể tự tin mà nói rằng với Đời thừa, Nam Cao đã bộc lộ được tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của mình khi viết những dòng bi kịch về Hộ. Kinh nghiệm và vốn sống đã cho ông viết những điều có sức rung động, lay chuyển lòng người đến thế! Đó chính là nhờ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Nhân đạo ở sự ca ngợi khát vọng đẹp đẽ của Hộ, nhân đạo ở sự cảm thông sâu sắc với ngừoi tri thức… Và viết lên được những dòng như thé cũng là nhờ cái nhân đạo “mới mẻ” độc đáo của Nam Cao. Qua bi kịch tinh thần đầu tiên này của Hộ, Nam Cao đã bộc lộ được sự cảm thông, trân trọng bao kiếp người lao khổ trong cuộc đời này. Và phải chăng tư tưởng ấy đã kế thừa được của cha ông lòng nhân đạo truyền thống. Nhà văn không “phản ánh để phản ánh” mà sau những câu chữ tưởng như lãnh đạm, thờ ơ chính là một trái tim nhiệt thành, sôi nổi - một trái tim của tình nghĩa.

Hộ, nhân vật chính của Đời thừa, là một nhà văn có tài và đầy tâm huyết. Người đọc có thể nhận ra ở Hộ nhiều nét tự truyện của chính Nam Cao. Hộ đã từng viết được những tác phẩm có giá trị, được bạn bè cùng giới viết văn và người đọc yêu mến, cổ vũ. Nhưng, không muốn dừng lại ở bất kỳ chặng nào của thành công, không bao giờ mãn nguyện với những gì đã được viết ra. Hộ luôn luôn khao khát vươn tới cái tận thiện, tận mĩ của nghệ thuật. Hộ thèm khát nghĩ đến một tác phẩm “nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”.
Hộ (và cả Nam Cao nữa) có là một nhà văn “nghệ thuật vị nghệ thuật” không? Không. Bởi với Hộ, nghề văn thật là một nghề cao đẹp trong đời, là một nghề có ý nghĩa phục vụ con người, phụng sự nhân loại ở mức độ cao. Nó làm cho con người trở nên phong phú hơn, cao thượng hơn, nhân ái và độ lượng hơn, gần gũi nhau hơn. Hộ tự đòi hỏi cao và không bao giờ tự bằng lòng về mình, vì cái đẹp, sự tuyệt đối của nghệ thuật, đồng thời cũng vì một ý thức trách nhiệm cao đối với người đọc, đối với nhân loại mà Hộ phụng sự. Đối với Hộ, đưa ra cho người đọc một tác phẩm mờ nhạt, nông cạn, hơn nữa, lại viết cẩu thả, là một việc làm thiếu lương tâm, tệ hơn nữa, đó là một sự lừa gạt. Không muốn chỉ làm “một người thợ khéo tay” trong nghề văn. Hộ muốn “khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có”. Cuộc đời mà sống với những hoài bão như của Hộ, luôn phấn đấu để vươn tới, để hoàn thiện, luôn nhìn thấy mối mâu thuẫn giữa điều đã làm được và điều đáng phải làm được, luôn cố gắng để xoá bỏ sự mâu thuẫn giữa điều mình đang có và cái mình phải có, phải vươn tới; nguyên chừng ấy thôi đã đủ để
cho người ta không yên, đã đủ để người ta phải sầu khổ, nhiều khi cảm thấy đổ vỡ. Nhưng không chỉ có thế, tấn bi kịch của Hộ còn lớn hơn nhiều!

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ qua những bài viết ẩu. Thế nhưng Hộ vẫn còn chút an ủi. Đó chính là cuộc sống, sự tồn tại của vợ con anh. Anh chưa thực hiện đuợc khát vọng của mình – anh chưa viết được cuốn tiểu thuyết của đời anh, nhưng anh nuôi đủ vợ con. Anh đã kéo dài đươc sự tồn tại của gia đình mình. Và đó có thể goi là việc làm hữu ích. Đó cũng là cái an ủi cho cái “đời thừa” của một nhà văn. Thế cũng đáng an ủi lắm chứ !

Vì anh là người đặt “tình thương” lên hàng đầu, lẽ sống của anh là tình thương. Tình thương là trên hết. Chính trong lời khẳng định về tác phẩm trong tương lai của mình, anh đã nói: tác phẩm có giá trị là tác phẩm “ca tụng lòng tương, tình bác ái, sự công bình”. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả. Chính vì lẽ sống tình thương của mình, anh đã đón Từ, giúp Từ thoát khỏi những tủi nhục khi một mình trơ trọi với đứa con không cha. Những giọt nước mắt của Từ và của bà mẹ già của Từ đã khiến anh xúc động. Họ muốn khóc cho đến khi “bao nhiêu xương thịt cứ tan ra thành nước mắt” nhưng gặp anh, tình thương của anh đã toả rạng đến giúp họ thoát khỏi những đớn đau. Một người dám bỏ cái đời bay nhảy của tuổi xanh để nuôi nấng vợ con chẳng là người dũng cảm lắm sao ! Chính tình thương - lẽ sống tình thương đã khiến anh làm việc ấy. Anh cao đẹp quá ! Đời anh không phải là “đời thừa” với gia đình nho nhỏ của anh. Anh đau khổ vì tên anh cứ “lu mờ dần sau những tên khác mới xuất hiện rực rỡ” nhưng với Từ và đàn con – anh là biểu tượng sáng chói của tình thương. Tình thương ấy là rất đáng trân trọng. Trong một xã hội rác rưởi “chó đểu” như thế, thành động của anh chẳng là một hành động tốt đẹp hiếm hoi hay sao ? Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ đựơc trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Quả là một sai lầm khi anh kết luận: nguyên nhân trực tiếp cho sự sụp đổ các giấc mộng văn chương chính là vợ anh và đàn con nheo nhóc kia. Anh cạn nghĩ quá ! Đó không phải hoàn toàn là lỗi của vợ con anh. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đã khiến nah tìm niềm vui trong men rượu. Anh muốn quên, quên đi tất cả.

Anh không say trong men tình ái, trong khúc nhạc đong đưa… mà sau khủng khiếp trong men rượu. Chính anh cũng không hiểu tại sao anh về được đến nhà. Anh chỉ biết anh đã tỉnh dậy trên giường nhà mình khi tay chân rã rời. Men rượu “chết tiệt” ấy chính là cái trực tiếp làm cho bi kịch trong anh xuất hiện. Rượt đã khiến anh trở thành kẻ vô học, rượu đánh đồng loạt những người xấu, người tốt, kẻ giàu, người nghèo trong những cơn say. Khi say, ai cũng như ai hết ! Men rượu của anh không giúp anh có được cái tình của Chí Phèo giúp hắn hướng về cái “thiên lương”. Men rượu đã khiến anh trở thành một kẻ tiểu nhân vô học. Anh đã vi phạm lẽ sống tình thương của mình. Anh đã đánh vợ chon anh như một kẻ vũ phu. Vâng, chính lúc đó anh là kẻ vũ phu. Anh đã đánh đập vợ, người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể. Anh chỉ mặt Từ mà quát mắng:

- “Cả con mẹ mày nữa cũng đáng vật chết”. Anh đã làm tất cả, tất cả trong say. Sao mà tai hại quá ! Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp tưởng còn được an ủi bởi anh đã giữ trong lẽ sống tình thương của mình. Ai ngờ, cuộc sống vẫn không cho phép anh thực hiện điều đó. Thế mà nay, chính cái lẽ sống ấy anh cũng chà đạp nốt. Anh - cuộc sống đời anh quả là “đời thừa”. Bi kịch đầu tiên là bi kịch của những giấc mộng văn chương nên cái “thừa” còn không quá nhiều đau đớn như bi kịch này, bi kịch mà kết cục là cái “thừa” ấy của anh đã được được thể hiện đầy đủ. Anh đã động đến phần cao quý nhất. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất. Ở bi kịch trước, cái mặc cảm tội lỗi trong anh rất lớn vì anh là một nhà văn. Nếu Chí Phèo chỉ gieo rắc tội lỗi của hắn cho dân làng Vũ Đại, anh giáo Thứ chỉ truyền thụ sự chán nản lên đầu học sinh thì anh – anh gieo những “tình cảm rất nhẹ, rất nông” những tình cảm qua ư tầm thường ấy vào bao nhiêu độc giả. Sự nhiễm hại ấy lớn hơn. Dù thế bi kịch thứ hai này – bi kịch của một người mặc cảm tội lỗi còn lớn hơn nhiều.Với tư cách của một nhà văn anh đã gây ảnh hưởng đến người đọc từ những bài văn viết lấy lợi nhuận. Với tư cách của một con người, anh đã gây ra những điều ghê gớm hơn. Xã hội này đã quá nhiều, quá thừa những cái xấu. Anh cố giữ tốt đẹp trong mình thế mà anh cũng phá hỏng nốt. Mặc cảm này quá lớn và không hề có gì để an ủi được. Lẽ sống tình thương là cái được anh đề cao nhất mà anh còn vi phạm thì chẳng còn gì nữa cả. Bi kịch này của anh, lớn hơn gấp bội bi kịch kia bởi lẽ sống tình thương, chỗ dựa của bao giá trị nhân phẩm khác sụp đổ.


Là một người tôn thờ cái đẹp, cái cao thượng trong văn chương, Hộ cũng muốn sống đẹp trong tư cách một con người. Và Hộ đã có một hành động đẹp, tuyệt đẹp của lòng nhân ái. Hộ đã cứu danh dự của Từ, cứu sống đời Từ, cưu mang Từ đúng vào lúc Từ cần đến những điều ấy nhất. Trong tư cách một người chồng, một người cha, Hộ muốn Từ và các con mình hạnh phúc, ít nhất là không khổ, không đau khổ. Nhưng Hộ đã làm được những gì? Từ càng ngày càng khổ, càng gầy gò, xanh xao vì thiếu thốn, đói khát. Các con Hộ thì càng nheo nhóc, tật bệnh. Nguyên chỉ nhìn thấy cái cảnh ấy cũng đã đau khổ rồi, đầy bi kịch rồi, bi kịch của một người muốn làm điều tốt, muốn hạnh phúc cho người khác mà không sao làm được. Tuy nhiên bi kịch chính của Hộ là ở chỗ này: mối mâu thuẫn giữa khát vọng của một người nghệ
sĩ với ước muốn làm một con người tốt đẹp. Để có tiền có thể nuôi vợ nuôi con (dầu chỉ có mức độ thiếu đói), Hộ phải viết vội những tác phẩm mà ngay khi biết ra xong, chính Hộ đã thấy chán. Hộ phải chống lại ngay chính mình, vi phạm ngay những tiêu chuẩn mà Hộ đặt ra cho mình trong tư cách nhà nghệ sĩ. Viết văn để kiếm tiền, viết vội, viết cẩu thả, đó là điều không thể tha thứ, không thể bào chữa được, đối với Hộ. Nhưng để làm một người nghệ sĩ chân chính ư? Thì
Hộ phải bỏ mặc vợ con, thậm chí tàn nhẫn với vợ con. Nhưng như thế, với Hộ, lại là hèn nhát, là vô lương tâm, cũngkhông thể tha thứ được. Hộ đã chẳng từng nêu như một tiêu chuẩn sống là gì: “Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”. Hộ không thể chọn lấy một trong hai con đường: hi sinh nghệ thuật để làm một người chồng, người cha tốt, hoặc vì cái đẹp tối thượng của nghệ thuật mà hi sinh phần con người, làm một con người nhẫn tâm, vô trách nhiệm.
Cả hai thứ trách nhiệm ở Hộ đều được ý thức rất cao. Hộ không có quyền, và không thể chọn lấy và hi sinh bất kỳ phần nào. Tấn bi kịch thường xuyên dai dẳng của Hộ chính là ở đó. Trên cả hai phương diện trách nhiệm, Hộ đều cảm thấy mình làm được ở mức tồi nhất. Vì thế mà Hộ luôn luôn lên án mình, tự xỉ vả mình. Tấn bi kịch ấy trở thành một chứng u uất trầm kha nơi Hộ, có những lúc đã bộc phát lên. Những lúc ấy, những lúc say rượu, Hộ đã chọn lấy một, đã muốn tìmmột giải phóng cực đoan nhất. Nhưng rồi tỉnh cơn say, tình thế vẫn vậy, cái vòng lẩn quẩn vẫn vậy, xem chừng lại nặng nề, bi đát hơn.
Đời thừa kết thúc bằng một lần tỉnh rượu của Hộ sau một cơn say (trước đó đã bao nhiêu lần như thế?), Hộ khóc trước cái dáng nằm ngủ khổ sở của Từ, trong vòng tay gầy yếu của Từ. CảTừ cũng khóc. Hộ khóc vì hối hận đã tệ bạc, đã tỏ ra thô bạo với Từ. Nhưng nguyên nhân chính, hẳn Hộ đã khóc cho nỗi đau của mình, khóc vì cái bế tắc của đời mình, khóc sự tan vỡ thảm thương của hoài bão to tát và đẹp nhất của mình. Rồi cả Từ nữa, Từ cũng khóc vì cô đã mơ hồ
nhận ra điều đó. Đời thừa có phải là tấn bi kịch muôn đời của người trí thức? Người ta có thể vừa sống với hoài
bão lớn lao hiến dâng cho sự nghiệp, vừa sống với phần con người tốt đẹp của mình không?Được lắm chứ. Thế thì nguyên nhân bi kịch của Hộ ở đâu? Chính là ở sự bế tắc chật hẹp của đời sống. Cái vòng lẩn quẩn mà xã hội đã khép chặt lại trên thân phận người trí thức nghèo trong xã hội cũ, đặc biệt xã hội Việt Nam thời kỳ 1930-1945.
Nam Cao, với Đời thừa, đã để lại cho ta một bức tranh hiện thực, đồng thời cũng để lại cho ta một thông điệp. Người ta có thể sống mà không cảm thấy đời mình là đời thừa; không cảm thấy sống là sống mòn, là một cách chết mòn. Muốn thế, phải giật tung hết những cái lẩn quẩn, những bế tắc của đời sống đi. - Nỗi đau không được sống xứng đáng là một nhà văn: Phẩm chất quan trọng của nhà văn là tinh thần nhân văn, sức sáng tạo đời dào. Hạnh phúc của nhà văn là thỏa mãn đam mê nhưng Hộ phải in …chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương -> Hộ tự thấy mình đang đánh mất dần phẩm chất và niềm hạnh phúc đó
- Nỗi đau không được sống xứng đáng là một con người: Phẩm chất quan trọng nhất của “người” và niềm kiêu hãnh cao cả của kẻ “mạnh” là yêu thương giúp đỡ “kẻ khác”- nguyên tắc tình thương nhưng Hộ phải trở thành kẻ hèn kém thẫm chí vũ phu -> Hộ tự thấy phẩm chất ấy đang chết mòn, tự mình đang vi phạm nguyên tắc tình thương
+ Nhà văn đã hóa thân vào nhân vật để khơi sâu thêm nỗi buồn nỗi đau, cảm thương và đặc biệt còn thể hiện niềm trân trọng đối với nhân vật: hiểu những băn khoăn trăn trở, nỗi đau của nhân vật, thấy những day dứt trong nội tâm nhân vật: thấy trách nhiệm với văn chương, với gia đình, tưởng tượng ra tác phẩm của mình đựoc giải Nôben, con mình được ăn ngon …để rồi phải khóc nức nở và tự xỉ vả mình là thằng khốn nạn

4. Nghệ thuật
a. Miêu tả tâm lí nhân vật - Tâm lí nhân vật là một quá trình theo đúng lôgic của phép biện chứng tâm hồn: cảm giác mệt mỏi, khát nước sau cơn say -> cảm giác được sự chăm sóc của vợ (ấm nước đầy …) -> nỗi buồn nao nao -> đột nhiên hoảng sợ -> tỉnh rượu hẳn, nhận ra sự có mặt của vợ trong dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não -> bùi ngùi ngắm vợ, ái ngại và thương xót -> tự vấn về bổn phận và tình thương, tư cách làm chồng làm cha -> khóc nức nở
- Nam Cao không đứng ngoài quan sát cảm nhận miêu tả mà ông đã nhập vai, hóa thân vào nhân vật để cất tiếng nói bên trong. Điều này thể hiện một cách hiệu quả bằng cách cho nhân vật độc thoại nội tâm bằng giọng tự vấn đầy thổn thức, ân hận, đau đớn, bằng lời văn dày đặc những câu hỏi câu cảm ….
b. Nghệ thuật kể chuyện
- Đan xen giữa hiện tại và quá khứ: thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. Thời gian trần thuật chỉ khoảng một ngày( sáng hôm trước -> sáng hôm sau), thời gian được trần thuật là cả quãng đời dài (từ lúc còn là gã tuổi trẻ say mê lí tưởng -> khi tha hóa, một con người đáng yêu đã chẳng là mình nữa ) Sự đan xen hiện tại và quá khứ một cách khéo léo qua các đoạn kể, hồi tưởng và độc thoại nội tâm tạo tính hàm súc và thể hiện sắc nét tính cách nhân vật: đau xót, khốn khổ không lối thoát
5. Đời thừa- tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao- “Sự cẩu thà trong văn chương thì thật là đê tiện…Văn chương không cần những người thợ khéo tay…sáng tạo những gì chưa có” -> Văn chương đồng nghĩa với sáng tạo, yêu cầu rất cao ở tính mới mẻ, độc đáo
- “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên…người gần người hơn”: tác phẩm văn chương có giá trị nhất thiết phải mang nội dung nhân đạo sâu sắc

6.Giá trị nội dung
Bi kịch khủng khiếp hoàn toàn không có lối thoát của Hộ và dường như nó bao trùm thành bi kịch của cả đời anh - một “đời thừa”. Anh đổ lỗi tất cả cho gia đình, nhưng tất cả là tại anh. Tuy vậy cũng cần nói thêm rằng, bi kịch ấy có nguyên nhân sâu xa chính từ xã hội đương thời. Chính xã hội ấy đã đẩy anh phải lo “cơm áo gạo tiền”. Nỗi lo sinh kế đã khiến anh phải từ bỏ giấc mộng văn chương. Và chính những thất vọng ấy đã khiến anh chà đạp lên lẽ sống tình thương của mình. Nguyên nhân ấy có lẽ anh không hiểu được – nguyên nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến – nguyên nhân mà ngày ấy người ta đã nhận ra. Anh chưa tìm được lối thoát cho sự bế tắc. Đó là cái bế tắc của thời đại mà anh đang sống.
Nhưng đó phải chăng là nét hạn chế trong tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ? Ông đã biết đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nổi khổ của họ nhưng chưa đề ra được lối thoát cho họ. Nhưng những “tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo” ấy đã là đáng quý, đáng trân trọng biết bao ! Độc đáo, mới mẻ chính là ở lòng thương người – tình người nồng đượm bao la đằng sau lối viết văn tưởng như dửng dưng lãnh đạm.

III.Kết luận:
Ngày nay cuộc đời đã được đổi thay. Lớp văn sĩ đã thoát khỏi dù là một phần những nỗi lo “cơm áo” không còn những bi kịch tinh thần như Hộ nữa. Nhà văn ngày nay được ưu đãi hơn. Chúng ta không thể quên thời kỳ mà người trí thức văn nghệ sĩ mang những bi kịch tinh thần.
Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, độc đáo của Nam Cao đã khiến cho nhân vật dù qua bao thăng trầm vẫn đứng vững với tư cách một con người chân chính.

Tràng Giang (Huy Cận)

1.Tác giả:Huy Cận (1919-2005)-Là nhà thơ lãng mạn nhưng sớm đi theo cách mạng và cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước
-Trước CM là nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới với tập “Lửa thiêng” ( in 1940 )
Sau CM, là nhà thơ thành công trong cảm hứng sáng tạo dồi dào về quê hương đát nước với các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, đát nở hoa, bài ca cuộc đời.
- Thơ Huy Cận giàu chất suy tưởng và triết lý, chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.
->Huy Cận vừa là nhà thơ lớn vừa là nhà hoạt động văn hoá xã hội có uy tín
2.Tác phẩm:Trích trong tập“ Lửa thiêng”, là một trong những bài thơ tiêu biểu và nổi tiếng nhất của HC trước CM. 8 , viết trong tâm trạng buồn.
+Hoàn cảnh ra đời: Một buổi chiều thu năm 1939, tứ thơ Tràng giang đã hình thành khi Huy Cận đứng ở bờ nam bến Chèm nhìn ngắm cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước, bốn bề bao la, vắng lặng và nghĩ vềkiếp người nổi trôi.Bài thơ được hoàn thành sau 13 lần sửa bản thảo.
3.Chủ đề: nỗi buồn cô quạnh của nhà thơ thụởtước một dòng sông mênh moong, xa vắng ==> lòng yêu nước thầm kín, tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên và niềm khát khao giao cảm với đời
4.Nhan đề và lời đề từ
+Tràng giang: sông dài->cách diễn đạt mới, kết hợp với việc láy vần “ang” tạo âm hưởng vang xa
+Lời đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
- Chủ thể là con người: bâng khuâng và nhớ là động thái của chủ thể, con người bâng khuâng và nhớ nhung trước trời rộng sông dài
- Chủ thể là tạo vật : trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài
Cảm xúc bâng khuâng, nhớ trước khung cảnh thiên nhiên rộng lớn(trời rộng, sông dài)nỗi buồn phảng phất được gợi lên bởi sự xa cách, chia li giữa trời và sông
-> Lời đề từ có sự giao thoa cả hai nghĩa ấy. Nó làm cho không chỉ chủ thể nhớ nhung mà sông núi đất trời cũng bâng khuâng nhung nhớ. tâm trạng nhà thơ là niềm cảm thông, nỗi buồn sầu với nỗi buồn sông núi

II.Đọc hiểu văn bản
1)Khổ1:“Sóng gợn … điệp điệp
…………………………………
Củi một … mấy dòng”
- Không gian sông nước mênh mông:
+Sóng gợn tràng giang
+Nước....trăm ngả
+Lạc mấy dòng
==> gieo vần bằng. Âm “ang”, hình ảnh nhân hóa,Điệp từ hình ảnh sông nước mênh mang . Bề rộng với hình ảnh những vòng sóng liên tiếp nối tiếp nhau xô đuổi nhau điệp điệp loang xa như đến tận chân trời. Chiều dài với hình ảnh con thuyền thả mình buông xuôi theo những luồng nước song song.

- Hình ảnh cõi nhân thế
+Con thuyền xuôi mái: buông trôi theo dòng nước->gợi sự trôi nổi
+Thuyền về nước lại: vận động ngược chiều nhau->nỗi sầu chia li tan tác.
+Củi một cành khô lạc mấy dòng->sự nhỏ nhoi, lạc loài
Âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, con thuyền buông trôi theo dòng nước  cảnh sông nước mênh mang, hoang vắng nỗi buồn miên man không dứt và những kiếp người cơ cực, nổi trôi vô định
=>Tương quan đối lập: không gian tràng giang bao la>cảm giác cô đơn lẻ loi của con người trong trời đất

2) Khổ2 :“Lơ thơ … đìu hiu
………………………………
Sông dài… cô liêu”
- Từ ngữ gợi cảm,nghệ thuật tạo hình - Nắng xuống trời lên sâu chót vót dùng từ sáng tạo Chiều cao của đỉnh trời được chuyển hóa thành chiều sâu của vũ trụ,
-Sông dài trời rộng bến cô liêu: sông dài trời rộng của tạo vật được mở ra theo chiều sâu hút mắt của cái nhìn ngang
--> thiên nhiên hiu quạnh hoang vắng, buồn bã nỗi buồn mênh mông trải rộng cảm giác cô quạnh của con nghười trước không gian rộng lớn

3) Khổ 3 :
“Bèo dạt …nối hàng
…………………………………..
Lặng lẽ … bãi vàng”
 Chi tiết gợi cảm, điệp từ, từ phủ định cảnh vật buồn và mênh mông, chia lìa cảm giác cô quạnh, buồn bã của kiếp người vô định
 bóng dáng con người thưa thớt rồi mất hút trong sự ngự trị tuyệt đối của thiên nhiên hoang vắng lặng lẽ -> cái tôi thi sĩ không tránh khỏi cảm giác bơ vơ lạc loài sầu tủi
khát khao niềm thân mật, giao cảm với đời

4) Khổ 4 :
“Lớp lớp … núi bạc
…………………………………
Không khói.......nhớ nhà”
Hình ảnh và ý thơ cao rộng, tình tứ bức tranh thiên nhiên rộng lớn hoang vu,
Tác giả những tạo vật trong mối tương phản: mây cao núi bạc (vô hạn lớn lao), chim nghiêng cánh nhỏ (hữu hạn, nhỏ nhoi) -> cái nhỏ càng thêm nhỏ và đáng thương cái lớn càng thêm mênh mông rợn ngợp. -> Không gian vươn xa tới vô biên ở mọi chiều hướng.Vì vậy trước Tràng giang con người như choáng ngợp trước vô cùng
--> nỗi nhớ thương quê hương da diết cảu nhà thơ

Đánh giá
1. Âm điệu chung của bài thơ- Âm điệu thơ thất ngôn tuy nhiên nhịp thơ có thiên hướng trải dài (2,2,3->4,3) gợi nét mênh mang, những khoảng rộng xa
- Thanh điệu khai thác trên nền thanh điệu thơ thất ngôn (bb,tt,tbb- tt,bb,btt) và có sự hòa điệu riêng kết hợp khai thác hiệu quả âm thanh của các từ láy nguyên (điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn) kết hợp với cách tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc song song trùng điệp (thuyền về-nước lại, nắng xuống- trời lên, sông dài-trời rộng, sâu chót vót-bến cô liêu, hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng) tạo sự lặp lại đều đặn, miên man, bám đuổi, gợi ra âm hưởng trôi chảy xuôi chiều. -> Tất cả tạo âm điệu mênh mang xao xuyến rong ruổi triền miên tựa như nhịp trôi chậm chạp miên man vô hình của dòng thời gian, âm điệu ấy là biểu hiện của sự cảm thông sâu xa của hồn người với thiên nhiên, sự đồng điệu tinh vi giữa hồn thi nhân và hồn tạo vật
 mang màu sắc cổ điển
2.Hình thức tổ chức lời thơ
+ Tổ chức theo phép đối ngẫu Đường thi tuy nhiên không đối chọi mà chỉ là sự tưong xứng trang trọng mở ra chiều kích vô biên của tạo vật. -> Cách tân thi pháp cổ cho phù hợp tâm kí hiện đại
+ Lời thơ: từ láy, song đối ( Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ, bất tận trường giang cổn cổn lai. Đăng cao, Đỗ Phủ); cụm từ cấu trúc thành ngữ 4 tiếng ( sóng gợn tràng giang...); tạo từ theo phong cách cổ điển( bến cô liêu) lối lạ hóa (sâu chót vót)
-> Vẻ hiện đại mà vẫn đượm phong vị cổ Đường thi
3. Hình ảnh sáng tạo: củi một cành khô, chim nghiêng cánh nhỏ: hình ảnh tả thực trong thế tương phản hữu hạn-vô hạn, nhỏ nhoi-lớn lao, hữu hình -vô hình (củi một cành khô/nước sầu trăm ngả, chim nghiêng cánh nhỏ/bóng chiều sa)-> sự sinh động sắc nét của tiên nhiên tạo vật, gợi ra thân phận bơ vơ lạc loài chìm nổi vô định của những cá thể nhỏ nhoi giữ thiên nhiên mênh mông hiu quạnh. Đối diện với những cá thể ấy con người không khỏi chạnh lòng nghĩ đến thân phận mình. Nó cũng là cái cá thể bơ vơ trôi dạt trên dòng đời, trong cái vô tận của không gian , cái vô thủy vô chung của thời gian
4 Nội dung thể hiện lòng yêu nước thầm kín
Tinh thần yêu nước lúc bấy giờ phải kín đáo gửi gắm trong sinh hoạt hàng ngày Gánh nước đêm(Trần Tuấn Khải), tình yêu đôi lứa (thề non nước Tản Đà), tâm tư loài vật (Nhớ rừng , Thế Lữ), muợn xưa nói nay( Chữ người tử tù, bữa rượu máu NTuân) trong Tràng giang là nỗi buồn niềm thiết tha trước tạo vật thiên nhiên- nỗi buồn của một người dân thuộc địa trước giang sơn mất chủ quyền(nỗi buồn sông núi) đã hòa lẫn vào nỗi bơ vơ trước tạo vật vô biên hoang vắng  lòng yêu nước thầm kín.

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2009

Khổ 2 - Đây thôn Vỹ dạ

Câu3 (3 điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?


Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cái tình" trong thơ và tâm trạng của nhân vật trữ tình trước thiên nhiên, vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1932 -1945 "ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Đúng thế, bạn đọc đương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên cuồng" của nó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt, mới mẻ của Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong thơ ông chính là sự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được. Nét phong cách đặc sắc ấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ rất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích từ tập Thơ Điên của Hàn Mặc Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ nét trong khổ thơ:
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ trong mộng tưởng:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huế bên bờ Hương Giang với những vườn cây trái, hoa lá sum suê hiện lên thật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang tắm mình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh “nắng hàng cau nắng mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn trề sức sống xanh tốt. Màu “mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ khen cây cối xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹp của “vườn ai”. Trong không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúc hậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa xa, vừa thực vừa ảo bởi “lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của con người. Như vậy tâm trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềm vui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi mộng khi được trở về với cảnh và người thôn Vĩ.
Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu trời hiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận. Biện pháp nhân hóa cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theo không gian riêng của mình và mây cũng thế. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng gió; mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy “mây” và “gió” như những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sự là một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì mây mới bay theo, thế mà lại nói “gió theo lối gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn chương chấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng khi về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiên lại thay đổi đột biến và trở nên buồn như vậy?. Trong mộng tưởng, Hàn Mặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ làm nên tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tả vô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng chẳng vui gì hơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vào thơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại “buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm, không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng lòng "buồn thiu” của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờ của nó còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úa tàn đang “lay” rất khẽ trong gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế là cùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của nhân vật trữ tình lại thay đổi:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào đậu bên trên con sông đó là “thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cất tiếng hỏi xa xăm “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó có chở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay không? Câu hỏi tu từ vang lên như một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp gương mặt sáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mới biết nỗi lòng của nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biết nhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình cảm của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).
Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vật trữ tình trong buổi chiều. Như vậy diễn biến tâm lí của thi nhân hết sức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một tâm trạng vui với cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ này:
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đường xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình lại khép lại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết người thôn Vĩ có còn nặng tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không? Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình rơi vào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.
Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử, nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -…. kịp tối nay” để lại trong lòng người đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của một nhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng, đầy suy tư.
Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu tranh để khẳng định. Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó sẽ ở mãi trong trái tim bạn đọc. Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắng và gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí người Việt Nam.
Nguyễn Trung Ngạn ĐH Cần Thơ 2007

Đời thừa - Tấn bi kịch của một con người có lương tri

Nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết: “Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người”. (Văn học 11, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, trang 201). Qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa, anh/chị hãy chứng minh nhận định trên. (3 điểm)

Nhà văn Nam Cao (1915 - 1951) là cây bút hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam trước cách mạng và cũng là nhà văn có nhiều đóng góp cho nền văn học non trẻ những ngày đầu. Trước cách mạng, do bên cạnh việc viết về bi kịch của người nông dân với tác phẩm bất hủ “Chí Phèo” người đọc còn nhớ mãi bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng trong tác phẩm “Đời thừa” mà được thể hiện rõ qua nhân vật Hộ. Nhà văn Nam Cao với tài năng xuất chúng và một tấm lòng yêu thương nhân ái bao la đã thể hiện rõ được tâm lý của người trí thức tiểu tư sản trong cảnh ngộ bi kịch ấy. Chính vì vậy nhận định về Nam Cao, sách Văn học 11 viết “Ông có sở trường về diễn tả, phân tích tâm lý con người”.

Truyện ngắn “Đời thừa” ra mắt bạn đọc lần đầu tiên trong “Trang tiểu thuyết số 7” số ra ngày 4/3/1943. Tác phẩm cùng đề tài này có “Mực mài nước mắt” của Lan Khai, “Nợ văn” của Lãng Tử, Đời thừa còn gần gũi về đề tài với một số tác phẩm của Nam Cao như “Trăng sáng”, “Nước mắt” và tiểu thuyết “Sống mòn”. Qua tác phẩm Nam Cao đã miêu tả thành công tâm trạng của một người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng.

Hộ vốn là một nhà văn, một nhà văn mang trong mình hoài bão lớn ấy là viết được một tác phẩm “vượt qua mọi giới hạn và bờ cõi” ai đó vội cho đó là sự háo danh. Nhưng không phải vậy. Đó là ước mơ của một con người có lý tưởng, có hoài bão lớn, muốn khẳng định được tài năng của mình. Hộ còn là một nhà văn chân chính. Điều này được thể hiện qua một loạt quan niệm của anh về văn chương “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” với ý nghĩ ấy Hộ đã vô cùng căm ghét sự cẩu thả trong văn chương “cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”. Như vậy qua những quan niệm của Hộ về văn chương ta thấy đây là một nhà văn có hoài bão, một nhà văn chân chính, có lương tri của một người cầm bút chân chính ý thức được trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Thế nhưng trước khi là một nhà văn Hộ còn là một người chồng, một người cha, hắn còn có một gánh nặng gia đình trên vai. Cuộc sống với một gia đình đông con, một người vợ thất nghiệp đã cướp đi ở hắn sự thanh thản sự thanh thản cần thiết để một tâm hồn văn chương thăng hoa, khi mà cứ hết tháng lại “tiền nhà, tiền gạo, tiền nước mắm”.

Hoài bão văn chương có thể nung nấu trong chốc lát nhưng chuyện cơm áo là chuyện phải đối mặt hàng ngày. Chả thế mà Xuân Diệu đã từng thốt lên:
“Nỗi đời cay đắng giơ nanh vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”
Thế là Hộ điên lên, phải xoay tiền. Nam Cao đã thật tỉ mỉ khi miêu tả tâm trạng của Hộ trong cảnh túng quẫn ấy “đang ngồi hắn đứng phắt dậy mặt hầm hầm đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn”. Chỉ một đoạn văn ngắn mà ông đã tái hiện lại tâm trạng của Hộ: thật bức bách. Nanh vuốt của họa cơm áo đang có nguy cơ nuốt chửng nhà văn Hộ đầy tâm huyết ngày nào.
Và thế là để có tiền thì Hộ phải viết. Nam Cao là một nhà văn hiện thực nên ông biết rằng Hộ muốn có tiền thì phải viết, viết những tác phẩm đáp ứng được nhu cầu của một đám thị dân lúc bấy giờ “những tác phẩm làm người ta quên ngay sau lúc đọc”. Hộ phải viết những tác phẩm ấy, nhưng giả dụ có ai bảo hắn viết những tác phẩm cao quý hắn cũng chẳng biết đường nào mà viết bởi tâm trạng bức bách ở trên. Thế rồi Hộ bị văng vào quỹ đạo của bi kịch.

Hắn thấy xấu hổ khi đọc những tác phẩm ấy “hắn đỏ mặt lên”. Đó là sự xấu hổ của một chút lương tri ít nhiều chưa vỡ nát trong Hộ. Hộ đau đớn, tủi cực không phải vì không được viết, mà là anh đã tự giẫm lên những nguyên tắc do mình đặt ra, còn gì đau đớn hơn khi mình lại phản bội chính mình. Nam Cao tỏ ra rất tinh tế và cảm thông trước tâm trạng của Hộ. Phải hiểu, phải cảm thông thế nào thì ông mới có thể viết lên những trang văn đầy giằng xé như vậy.

Thế là từ không thực hiện được giấc mộng văn chương và Hộ đã trở thành kẻ phản bội chính mình. Nhưng Nam Cao không dừng lại ở đó, ông muốn người đọc đi đến tận cùng sự khổ cực, bi kịch của người trí thức. Hộ lại bị đẩy ra khơi – trước từng cơn sóng dữ của cuộc đời. Nó đã quăng anh vào bi kịch nghề nghiệp nó lại quật anh vào một bi kịch khác, bi kịch không thực hiện được tình người cho trọn.
Mọi chuyện bắt đầu từ lúc hắn lấy Từ. Lấy Từ hắn đã thực hiện được nguyên tắc tình thương của mình đã cứu được ba con người. Nhưng rồi, từ đó bi kịch đã mở ra với hắn. Gánh nặng gia đình đã đè nặng lên vai khiến hắn thấy mình khổ, đáng trách hơn là hắn coi Từ là nguyên nhân khiến mình khổ. Từ đó hắn đã tìm đến rượu, có lúc hắn toan ruồng bỏ vợ con. Khi say hắn đã có những hành động vũ phu quá đáng “hắn chỉ tay vào mặt Từ” đuổi mấy mẹ con Từ ra ngoài. Nam Cao đã có một lời biện hộ yếu ớt ấy là cho hắn hành động trong lúc say. Nhưng tất cả đều đổ nhào trước nguyên tắc: nguyên tắc tình thương. Hộ thật đáng trách khi coi vợ con là nguyên nhân làm mình khổ. Thế là mọi nguyên tắc tình thương mà hắn đặt ra trước đây “kẻ mạnh là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai mình” đã bị hắn đạp đổ.

Giờ đây đâu còn là một nhà văn Hộ giàu tâm huyết, giàu lòng nhân đạo nữa mà là một con người vũ phu quá đáng. Hộ thật đáng trách nhưng có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thế nhưng Nam Cao đã để cho nhân vật của mình dừng lại trên con đường bị tha hóa ấy. Sau mỗi lần say, Hộ lại tỉnh và nhận rõ được sai lầm của mình xin lỗi và làm lành với vợ con. Phải là một người đầy tài năng, già tay nghệ thuật và vững tin vào con người thì Nam Cao mới có thể đặt nhân vật vào lốc xoáy cuộc đời nhưng cuối cùng tình người vẫn chiến thắng. Hộ đã khóc “Anh chỉ là một thằng khốn nạn”. Giọt nước mắt ăn năn, hối lỗi. Câu chuyện về cuộc đời Hộ đã khép lại bằng câu hát ru đẫm nước mắt của Từ:
“Ai làm cho khói lên giời
Cho mưa xuống đất cho người biệt li”
Như vậy, qua tấn bi kịch của nhà văn Hộ, Nam Cao đã khắc hoạ một cách chân thực và sâu sắc bi kịch của người trí thức tiểu tư sản trước cách mạng. Đồng thời lên án xã hội bất công không cho con người phát triển toàn diện về tài năng và nhân cách. Qua đây ta cũng thấy được tài năng nghệ thuật về diễn tả và phân tích tâm lý bậc thầy của nhà văn Nam Cao. Nhưng dù cuộc đời có cay nghiệt, lốc xoáy có dữ dội thì nhân vật của ông vẫn hướng về chân trời của cái chân, thiện, mĩ.